Wednesday, March 9, 2011

New blog

For more convenience, I will move my blog to http://tlhungvn.wordpress.com.
See you there :)

Sunday, February 14, 2010

Nên thi vào Mồng Một Tết

Năm 1973, kỳ thi học kỳ 1 của chúng tôi (lưu học sinh Việt Nam tại Liên xô) tổ chức vào tháng hai năm 1973, trùng với dịp Tết nguyên đán. Đêm giao thừa năm đó, sinh viên Khoa Toán của trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Taskent (Liên Xô) tổ chức liên hoan văn nghệ rất vui để mừng ngày ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam (27/01/1973). Chúng tôi vô tư hát, nhảy và uống rượu, không hề nghĩ tới kỳ thi Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô sẽ phải trả vào ngày hôm sau.

Mười giờ sáng hôm sau (là mồng một Tết Âm lịch), tôi tỉnh dậy với một cái đầu nặng như quả tạ, không thể hiểu tại sao mình lại ngủ dưới sàn nhà. Sau khi vào nhà tắm với sự giúp đỡ dòng nước lạnh tôi mới sực tỉnh là theo đúng lịch thi học kỳ I tôi cần phải đi trả thi môn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhìn quanh thấy Ký túc xá vắng tanh. Đoán chắc các bạn cùng phòng đẫ dậy và đi thi hết. Sau này tôi mới biết là các bạn cùng phòng đã rất cố gắng gọi tôi dậy đi thi nhưng tôi quá say nên không đã dậy nổi. Không kịp ăn uống gì, tôi lao tới trường và chạy khắp nơi tìm phòng thi. Rất may là ở Liên Xô thời đó sinh viên đại học đều tham dự kỳ thi vấn đáp, nên sinh viên có thể tới phòng thi bất kỳ giờ nào một ngày thi, từ sáng tới chiều. Tôi bước vào phòng thi với bộ dạng liều mạng của người còn chưa tỉnh rượu, bắt đại một phiếu thi và quay về chỗ để chuẩn bị trả lời. Tôi không nhớ mình đã phải chuẩn bị câu hỏi gì, nhưng chỉ nhớ mình đã rất tự tin (chắc mem rượu vẫn đang còn tác dụng) trả lời các câu hỏi thi. Việc khó khăn nhất của tôi lúc đó là làm sao mà hơi rượu không phả ra trong khi trả lời câu hỏi thi. Giáo sư hỏi thi môn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô lần đó là Giáo sư KIM -người Nga gốc Triều tiên đã rất kiên nhẫn lắng nghe tôi lần lượt trả lời các câu hỏi theo phiếu thi. Khi tôi vừa chấm dứt trả lời, Giáo sư Kim có nói đại ý là hôm nay là ngày tết của người Việt Nam và cũng là tết của người Triều Tiên nên giáo sư chỉ yêu cầu tôi trả lời thêm một câu hỏi phụ để cho điểm GIỎI. Tôi giật mình khi biết câu hỏi phụ của giáo sư Kim đưa ra là ngày ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh Việt nam. Là một lưu học sinh Việt nam đi theo diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, lẽ ra tôi phải nhớ chính xác ngày đã ký Hiệp định Paris, ngày mà Mỹ buộc phải ngừng cuộc chiến tranh xâm lược tại Miền nam Việt nam, nơi mà người thân của tôi, nhiều bạn bè cùng lứa tôi đang chiến đấu. Tôi tái mặt vì quả thật lời giải của câu hỏi đó không nằm trong cái đầu đang âm ỉ đau vì rượu của tôi. Tôi chỉ nhớ mang máng và quyết định trả lời đại một ngày nào đó trong tháng Giêng 1973. Giáo sư Kim gật đầu có vẻ hài lòng và ghi vào sổ thi của tôi điểm GIỎI. Tôi sung sướng bước ra khỏi phòng (chắc giống với vẻ mặt đắc thắng của Chí Phèo sau khi đòi được nợ) và quyết định chờ LQT- một bạn cùng lớp với tôi- vào trả thi. Khi LQT. ra khỏi phòng thi tôi thấy vẻ mặt băn khoăn của LQT. bèn hỏi "điểm thi không tốt lắm à?".

- Không, được điểm GIỎI.

LQT trả lời, nhưng với vẻ băn khoăn LQT nói tiếp "Ông giáo sư có hỏi mình về ngày ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh tại Việt nam vừa rồi, mình trả lời xong thì nhận được điểm GIỎI. Mình băn khoăn vì thấy ông giáo sư lầm bẩm "tại sao cậu sinh viên Việt Nam vừa ra trả lời một ngày mà cậu sinh viên Việt nam này lại trả lời một ngày khác nhỉ". Quả thật lúc đó tôi và T. đều không biết chính xác ngày nào là ngày ký Hiệp định Paris, và chắc chúng tôi được điểm GIỎI môn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô do đã đi thi đúng Mồng Một Tết Âm lịch. Sau này, cả tôi và LQT đều công tác trong các trường đại học lớn, và rất may các kỳ thi học kỳ của nước ta đều tránh ngày Tết chứ không thì chúng tôi đều cho sinh viên điểm giỏi hết.

Tết Con Cọp đã tới, tôi chúc các bạn sinh viên luôn khỏe - vui, và nếu cần phải đi thi môn nào đó thì nên chọn ngày Mồng một Tết.

Tản mạn về Kachiusa - bài hát Nga nổi tiếng một thời


Chắc chắn là tất cả chúng ta đã từng nghe, từng hát và yêu thích bài hát Kachiusa qua cả lời Việt và lời Nga. Vào khoảng năm 1968 lần đầu tiên tôi được nghe bài hát này do một sinh viên hát khi tạm biệt trường đại học để ra chiến trường với lời Việt:


Đào vừa ra hoa, cành theo gió đưa vườn trăng tà
Ngoài dòng sông màn sương trắng buông lững lờ
Từ bến sông thoáng bóng ai in trên màn sương mờ
Cất cao lời ca làm rung cỏ cây ven bờ
........


Lúc đó ý tứ và ca từ của bài hát thì tôi chưa hiểu lắm, nhưng sự du dương của các nốt nhạc bài hát làm cậu học sinh lớp tám như tôi nhớ mãi. Đến bây giờ tôi vẫn tin rằng trong sổ tay của các thanh niên ra mặt trận thời kỳ chống Mỹ luôn có một trang chép bài hát Kachiusa, như lời nhắn nhủ, động viên người thân yêu hãy vững lòng chiến đấu vì quê hương và ước mơ hi vọng vào ngày mai tươi sáng.


Lâu lắm rồi, tôi đã qua thời trai trẻ, đã trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời, nhưng âm hưởng và giai điệu của bài hát Kachuisa vẫn luôn mãi trong tôi. Gần đây, qua nuocnga.net, một trang website của những người Việt đã và đang sống tại nước Nga, tôi mới được nghe lại bài hát Kachiusa do nghệ sỹ người Nga hát. Thói quen tò mò của người làm toán đã buộc tôi tìm hiểu xem sự liên quan giữa bài hát Kachiusa trữ tình và hỏa tiễn Kachiusa nổi tiếng thế nào.


Kachuisa là tên gọi một cách thân mật dành cho những cô gái trẻ mang tên Katherine. Theo truyền thống văn hóa Slavơ người Nga thường gọi người thân, bạn bè thân thiết bằng những tên một cách trìu mến như Tania thay cho Tatyana, Natasha thay cho Natalia, hay Kolia là tên gọi một cách trìu mến của Nicolai hoặc Pavka là tên thân mật của Paven ... Thậm chí qua tờ nuocnga.net tôi còn được biết Vоdkа (tên một loại ruợu nổi tiếng của Nga) là cách gọi biến thể (một cách trìu mến) từ từ Vоdа (tiếng Nga nghĩa là nước). Chắc trên thế giới chỉ có người Nga gọi thứ rượu nổi tiếng của mình một cách đặc biệt như thế.

Bài hát Kachiusa được sáng tác năm 1938, trong thời kỳ mà nhân dân Xô Viết đang tích cực chuẩn bị đối mặt với một cuộc chiến tranh tới từ nước Đức phát xít của Hitle. Bài Kachiusa hát về một cô gái bên bờ sông Ugra đợi chờ người yêu- một người lính nơi biên thùy xa xôi. Lời bài hát được nhà thơ Mikhail Isakovsky viết và được nhạc sỹ Matvei Blanter phổ nhạc. Bài Kachuisa đã nhanh chóng phổ biến khắp đất nước Xô viết. Lần đầu tiên bài hát “Kachiusa” được nữ ca sĩ người Nga Valentina Batisheva trình diễn trên sân khấu với dàn nhạc do nhạc trưởng Viktor Krushavitsky chỉ huy. Và công chúng đã đón chào bài hát mới ra mắt một cách nồng nhiệt đến nỗi nữ ca sĩ Valentina Batisheva đã phải hát lại bài Kachuisa tới 3 lần.

Bài hát “Kachiusa” đã được trình diễn trong các làng quê xa xôi cũng như tại các thành phố lớn của Liên bang Xô viết, tại các cuộc mít tinh cũng như tại các lễ hội dân gian, hoặc đơn giản trong các buổi sinh hoạt gia đình, hay bên bàn ăn của các ngày lễ. Ca từ và nốt nhạc đã giúp bài hát Kachiusa đã trở nên nổi tiếng, thân thuộc và gần gũi đối với hàng triệu triệu người dân Xô Viết ngay từ khi mới xuất hiện.

Trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết (1941-1945) Kachiusa đã trở thành một bài hát có tính tích cực trong việc động viên hàng triệu chiến sỹ đang chiến đấu ngoài mặt trận. Kachiusa đã trở thành một ca khúc nổi tiếng nhất của những năm tháng khó khăn của cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết. Những người lính Hồng quân đã hát vang bài hát Kachiusa dưới chiến hào giữa những đợt pháo của quân Đức. Cùng bài hát Kachiusa những người lính Xô Viết đã lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn với những kẻ phát xít xâm lược. Cũng như số phận của nhiều bài hát nổi tiếng, trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết đã xuất hiện rất nhiều dị bản của bài hát Kachiusa. Sau chiến tranh các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Xô viết đã sưu tầm được trên 100 dị bản của bài hát này.

Có một huyền thoại cảm động liên quan tới bài hát Kachiusa trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc của người dân Xô Viết. Đó là một câu chuyện về một cô thôn nữ Kachuisa đã đi tìm người yêu trên khắp các mặt trận, với một hành trình vô cùng gian nan nguy hiểm và tình yêu chung thuỷ của cô gái đã làm rung động tấm lòng của rất nhiều người lính Hồng quân. Sự thủy chung của cô gái đã làm những người lính Hồng quân ngoài mặt trận rất tự hào và yên tâm vì sự chờ đợi của hậu phương. Kachiusa đã sống mãi trong lòng mọi người và qua mọi thời gian như vậy đó.

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Quốc xã và bọn Phát xít (1943 - 1945), du kích quân người Italy Felice Cascione (1918 - 1944) đã viết lời tiếng Ý cho bài hát tiếng Nga Kachiusa với tên gọi Fischia il vento ("Gió thổi") và coi nó như bài hát truyền thống của phong trào du kích Italy. Du kích quân và người dân Italy đã hát vang bài hát Kachiusa bằng tiếng Italy trong ngày giải phóng thành Roma khỏi chế độ độc tài phát-xít Mutxolini. Kachiusa với ca từ tiếng Italy cùng với Bella ciaoLa Brigata Garibaldi trở thành một trong những bài hát cổ động nổi tiếng nhất của du kích Italy trong chiến tranh giải phóng đất nước.

Bài hát Kachiusa quen thuộc mà chúng ta yêu mến đã đến Việt Nam từ năm 1955, do ca sỹ Nguyễn Anh Cường-thành viên của đoàn nghệ thuật quốc gia đi dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần 5 ở Warsava (Ba Lan)- dịch từ tiếng Pháp ra lời Việt với cái tên "Caterina gửi người chiến sĩ biên thùy". Những năm sau đó, trong các chương trình ca nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam, bài hát này đã được phát nhiều lần.

Dưới đây là nguyên bản tiếng Nga bài hát Kachiusa và các bản dịch tiếng Việt.

Катюша

Thơ: Mikhail Vasilievich Isakovsky
Nhạc: Matvei Blanter

Расцветали яблони и груши,
Поплыли туманы над рекой.
Выходила на берег Катюша,
На высокий берег на крутой.

Выходила, песню заводила
Про степного, сизого орла,
Про того, которого любила,
Про того, чьи письма берегла.

Он ты, песня, песенка девичья,
Ты лети за ясным солнцем вслед.
И бойцу на дальнем пограничье
От Катюши передай привет.

Пусть он вспомнит девушку простую,
Пусть услышит, как она поет,
Пусть он землю бережет родную,
А любовь Катюша сбережет.

Расцветали яблони и груши,
Поплыли туманы над рекой.
Выходила на берег Катюша,
На высокий берег на крутой.


Kachiusa (lời Việt của Nguyễn Anh Cường)

Đào vừa ra hoa, cành theo gió đưa vườn trăng tà
Ngoài dòng sông màn sương trắng buông lững lờ
Từ bến sông thoáng bóng ai in trên màn sương mờ
Cất cao lời ca làm rung cỏ cây ven bờ

Gửi về anh lời hát thiết tha từ tấm lòng
Từ bờ sông gửi đến cánh chim đại bàng
Lời hát trong vút bay đi ngân qua màn sương mờ
Biết không chàng ơi! Rằng xa xôi em mong chờ.

Ngày này năm qua chàng đi ra nơi miền biên thùy
Vì quê hương, dù mấy khó nguy không lùi
Người chiến sĩ mến thương có hay chăng tấm lòng
Chốn làng quê có ai ngày nhớ đêm mong

Đào vừa ra hoa, cành theo gió đưa vườn trăng tà
Ngoài dòng sông màn sương trắng buông lững lờ
Từ bến sông thoáng bóng ai in trên màn sương mờ
Cất cao lời ca làm rung cỏ cây ven bờ

Gửi về anh lời hát thiết tha từ tấm lòng
Từ bờ sông gửi đến cánh chim đại bàng
Lời hát trong vút bay đi ngân qua màn sương mờ
Biết không chàng ơi! Rằng
xa xôi em mong chờ.

Ngày này năm qua chàng đi ra nơi miền biên thùy
Vì quê hương, dù mấy khó nguy không lùi
Người chiến sĩ mến thương có hay chăng tấm lòng
Chốn làng quê có ai ngày nhớ đêm mong



Ngoài ra, chúng ta có thể chiêm ngưỡng bản dịch của Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sau:


Kachiusa

Vườn cây vào vụ nở hoa
Mù mưa theo gió đi xa chưa về
Bờ sông xanh cỏ sum suê
Kachiusa đến đứng nghe, một mình.

Dốc cánh đồng, chị bước nhanh
Bài ca chim trĩ lông xanh mượt mà
Bài ca chị yêu sâu xa
Của người trai viết thiết tha thư tình.

Bay, bay, bài ca của mình
Đuổi theo trời lặng, rập rình hoàng hôn.
Trao cho anh lính biên cương
Chiếc hôn cô gái yêu thương ngóng chờ.

Lắng nghe bài hát từng giờ
Mong anh nhớ lại dáng cô nhẹ nhàng
Diệt thù, chúc anh sẵn sàng
Yêu anh, cô chẳng từ nan đáp lời.


Kachiusa-tên một cô gái Nga, tên một bài hát nổi tiếng một thời, nhưng cũng là tên của một loại pháo phản lực của Hồng quân Xô viết, đã làm quân đội phát xít Đức kinh hoàng trên các mặt trận. Pháo phản lực Kachiusa còn được gọi là Dàn đồng ca đỏ của Hồng quân Liên xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1941-1945)


Trên khắp chiến trường, đội quân phát xít Đức đã gặp những trận bão lửa từ giàn hỏa tiễn Kachiusa-đại bác phun lửa tự động nhiều nòng của Hồng quân. Những binh sĩ Đức còn sống sót sau lần đầu chịu đựng hỏa lực và tiếng gầm thét của “Kachiusa” hầu như không còn tinh thần để chiến đấu nữa, bởi vì hoặc là bị dập thương, hoặc là bị điếc hay chết lặng vì hoảng sợ.


Loại vũ khí mang tên cô gái Kachiusa này có thể tấn công tập trung vào đối phương với một hoả lực lớn trong một thời gian ngắn, một giàn phóng tuỳ loại (BM-8, BM-8-48, BM-13, BM-31…) có thể tương đương đại đội, tiểu đoàn pháo hoặc thậm chí cao hơn. Loại pháo phản lực này được lắp trên các xe ôtô thường là loại dã chiến, dẫn động nhiều bánh xe, hoặc trên xe bánh xích nên rất cơ động, bắn xong là có thể di chuyển vị trí được ngay. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Xô Viết , Hồng quân Liên Xô đã sử dụng loại vũ khí Kachiusa này với hiệu quả đặc biệt và rất bất ngờ. Bắt đầu từ năm 1943, để công phá những công sự phòng ngự kiên cố của quân Đức, trong pháo binh Hồng quân đã được trang bị thêm loại pháo phản lực Kachiusa BM-13 và BM-31. Các loại “Kachiusa” này đã trở thành lực lượng chủ lực trong các hoạt động bắn pháo chuẩn bị cho các cuộc tiến công, vì tạo nên một hoả lực rất lớn, tập trung và bất ngờ nên đã có một hiệu quả rất lớn, phá tan hoang hệ thống phòng ngự địch trong khoảnh khắc, đã làm cho binh lính địch phát điên chạy khỏi nơi ẩn nấp ngay trong trận pháo kích.


Sau khi góp phần giải phóng quê hương Xô Viết, các dàn tên lửa Kachiusa đã cùng các chiến sĩ Hồng quân tiến đến tận Berlin-sào huyệt của Hít le, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít, góp phần kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai.


Sau chiến tranh, các kỹ sư Xô viết tiếp tục cải tiến Dàn đồng ca đỏ Kachiusa, hoàn thiện uy lực của nó. Tên lửa Kachiusa và nhiều thế hệ đàn em của nó đã tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức ở nhiều nước, trong đó có chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược ở Việt Nam.

Cho dù là bài hát hay một loại vũ khí, Kachiusa luôn được mọi thế hệ người Việt Nam yêu mến và ngưỡng mộ.


Nhưng tới bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao Kachuisa, tên một người con gái lại vừa là tên bài hát trữ tình và lại là tên của một loại vũ khí có tính hủy diệt mạnh.


Có lẽ các nhà khí tượng quốc tế cũng có lý khi thường đặt tên các cơn bão trong năm bằng tên các cô gái.

Trần Lộc Hùng

(Sưu tầm từ nuocnga.net và Google.com)

Friday, March 27, 2009

CV & Research topics 2009

CV up to 03/2009 can be found here download

Research topics can be found here download

Thursday, February 19, 2009

Tài liệu giảng dạy

Tài liệu giảng dạy được cập nhật thường xuyên tại địa chỉ http://tlhungvn.4shared.com.
Để tìm được tài liệu các bạn cần nhanh nhất, có thể tìm tại đây .

Tuesday, August 7, 2007

“Nồi hơi nguyên tử” ngăn ngừa thế chiến thứ 3

Chuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở. Đó không chỉ là những giọt nước mắt sung sướng, mà còn là hệ quả của một thời gian dài khó khăn và gian khổ để tìm ra lá chắn hạt nhân cho Tổ quốc Xô viết. Tháng Tám năm 1949 trái bom nguyên tử đầu tiên của Liên xô đã được thử thành công. Thế là “ Nồi hơi nguyên tử” – bí danh của Igor Kurchatov - đã góp phần đẩy lùi nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thứ ba.

Igor Kurchatov (1903-1960)

Igor Vasilyevich Kurchatov sinh ngày 7 tháng Giêng năm 1903, tại Simsky (vùng Chelyabinsk, phía nam Ural, nước Nga). Chàng thanh niên Kurchatov tốt nghiệp đại học ngành Vật lý tại trường Tổng hợp Quốc gia Crime năm 1923 và vào học ngành đóng tàu tại Trường Đại học Bách khoa Petrograd. Năm 1925 Kurchatov chuyển tới Viện Kỹ thuật Vật lý và dưới sự hướng dẫn của Nhà vật lý nổi tiếng Abram Fedorovich Ioffe, ông bắt đầu nghiên cứu các vấn đề khác nhau liên quan tới tính phóng xạ. Năm 1932, Kurchatov nhận được sự tài trợ của chính phủ để thành lập một nhóm riêng của ông chuyên nghiên cứu hạt nhân và xây dựng máy gia tốc đầu tiên của Liên bang Xô viết. Ông đã tìm ra sự phân rã hạt nhân ural năm 1940.

Chương trình nghiên cứu sự phân rã hạt nhân của Kurchatov bị gián đoạn bởi chiến tranh thế giới thứ hai và Kurchatov đã gia nhập nhóm thiết kế các tầu phá các loại mìn từ tính của phát xít Đức. Năm 1943, dưới sự giới thiệu của Ioffe, Kurchatov được chỉ định làm giám đốc chương trình vũ khí nguyên tử Xô viết. Dự án này do chính Stalin đề xuất. Hai trái bom nguyên tử của Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki của Nhật bản vào tháng Tám năm 1945 đã buộc Stalin phải hành động cương quyết hơn. Stalin đã ra lệnh cho Kurchatov phải sản xuất được một trái bom nguyên tử vào năm 1948 và buộc Lavrenty Beria (Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên xô) trực tiếp lãnh đạo dự án. Vào ngày 29 tháng Tám năm 1949 trái bom nguyên tử đầu tiên của Liên bang Xô viết đã được thử thành công tại bãi thử Semipalatinsk, Nga.

Kurchatov được bầu là Viện sỹ Viện hàn lâm Khoa học Liên xô từ năm 1943 và ba lần được phong danh hiệu Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa trong các năm 1949,1951 và 1954. Ông là người lãnh đạo việc xây dựng thành công lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở châu Âu 1946, chế tạo thành công bom nguyên tử ở Liên bang xô viết năm 1949 và bom nhiệt hạch đầu tiên trên thế giới vào năm 1953. Kurchatov cũng là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Viện Năng lượng nguyên tử Liên xô từ năm 1943. Sau cái chết của Kurchatov, năm 1960 Viện Năng lượng nguyên tử Liên xô đổi tên thành Viện Kurchatov. Do có những công lao to lớn đối với Tổ quốc Xô viết, Kurchatov đã được nhận giải thưởng Lê nin năm 1957 và giải thưởng Liên bang Xô viết trong các năm 1942, 1949, 1951 và 1954.

Phòng thí nghiệm số 2.

Dự án hạt nhân của Nhà nước Xô viết bắt đầu khởi động một cách tuyệt mật vào năm 1943. Bản thân Viện Nghiên cứu hạt nhân đã đổi tên thành Phòng thí nghiệm số 2 của Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô. Sự bí mật bao trùm khắp nơi trong lãnh thổ của Viện. Các cộng tác viên của một số bộ phận không được biết đồng nghiệp của họ đang làm gì sau các bức tường. Thậm chí có nhiều người làm việc nhiều năm trong Viện nhưng không hề biết trên lãnh thổ của Viện đã có lò phản ứng nguyên tử họat động. Mọi giấy tờ ghi chép được đánh số và kiểm tra bởi Phòng thứ nhất (bộ phận bảo vệ nội bộ). Để nhận một tờ giấy, mọi người cần phải tới đó, ký nhận và sau khi tờ giấy đã sử dụng, nhất thiết phải nộp trả lại. Rõ ràng là tuân thủ chế độ nghiêm ngặt đó không phải dễ dàng, đặc biệt đối với các nhà bác học. Vì vậy, Kurchatov thỉnh thoảng vừa rít thuốc lá vừa nheo mắt nói với mọi người: ” trong phòng có mùi không tuân thủ nội quy”.

Lãnh chúa IGOR

Do khả năng làm việc kỳ lạ của Kurchatov mà người ta thường gọi ông là “Nồi hơi nguyên tử”, “ Người – xe tăng” hoặc “ Quả bom”. Tuy nhiên, mọi người trong Viện thích gọi ông là “Ông rậm râu”. Rất mạnh mẽ, thông minh sắc sảo, say mê tranh luận và rất nghịch ngợm là những nét không thể tách rời trong các đặc điểm của ông. Hồi đó, để đảm bảo an toàn trong công việc, tất cả các nhân viên trong Viện đều đi ủng cao su bọc bên ngoài giầy da. Để tránh nhầm lẫn, mọi người thường đặt các mẫu giấy có ghi tên từng người vào các chiếc ủng cao su. Có một lần, “Ông rậm râu” đã thay đổi mẩu giấy ở ủng của hai vị lãnh đạo cao nhất của Viện và cười ngặt ngẽo khi thấy cả hai vị lãnh đạo Viện đã không thể xỏ chân vào các đôi ủng của mình.

Gần gũi với Kurchatov, mọi người đều cảm nhận thấy ông đang làm một việc gì đó cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Và thực chất Kurchatov đã phải thực hiện nhiệm vụ tạo ra lá chắn hạt nhân cho đất nước Liên viết và góp phần ngăn chặn khả năng xảy ra chiến tranh Thế giới thứ ba. Sự quan trọng và khó khăn của nhiệm vụ mà ông phải thực hiện đã buộc Kurchatov làm việc quên cả ngày và đêm. Niềm hào hứng của ông ta cũng lây lan sang những người xung quanh. “ Chào - có gì tiến bộ không?” Kurchatov thường chào hỏi các công tác viên của mình như vậy mỗi buổi sáng tại nơi làm việc, sau đó ông lại tập trung cao độ vào các phương trình và công thức mà chắc chỉ có mình ông hiểu. Mọi người không thể hiểu được khi nào thì Kurchatov có thể ngủ. Thường thì các cuộc họp của Hội đồng khoa học Viện do ông đề nghị có thể khai mạc lúc 3 giờ sáng, nhưng sau đó ngay từ sáng sớm mọi người đã thấy Kurchatov ngồi bên bàn làm việc.

Sau lần đau đầu tiên do nghẽn mạch máu não, Kurchatov buộc phải di chuyển khó nhọc với cây gậy gỗ. Nhân viên y tế đã đưa ông tới nhà nghỉ ở Barbukhe để ông có thể nghỉ ngơi ở đó, nhưng Kurchatov đã nhanh chóng trở lại với công việc. Cơn đau thứ hai nhanh chóng xuất hiện. Khi đó Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên xô đã quyết định là Kurchatov không được tới Viện làm việc nếu không có sự cho phép ở cấp cao nhất.

Tất nhiên “ Ông rậm râu” rất buồn khi bị cách ly với công việc mà ông yêu mến, tuy nhiên thỉnh thoảng ông vẫn trốn được sự quản lý của bác sỹ, và quay về Viện để tiếp tục công việc. Tất cả mọi người trong Viện đều yêu mến và tôn trọng ông. Phụ nữ trong Viện gọi ông một cách kính trọng là lãnh chúa Igor bởi vì ông cao lớn, rậm râu, giống hệt những tráng sĩ trong các câu truyện cổ tích NGA. Ông đã ba lần được phong Anh hùng Lao động. Nhưng ông thường nói đùa một cách buồn bã là không có danh hiệu nào có thể chữa khỏi bệnh tật cho ông được.

Bốn ngày trước khi chết, Kurchatov đã đi nghe hòa nhạc với tâm trạng rất vui vẻ. Ông mất ngày 7 tháng 2 năm 1960 ở tuổi 57 tại Mat-xcơ-va. Hôm đó, ông tới gặp một người bạn trong Viện để trao đổi công việc. Ông đang ngồi trên ghế nói chuyện vui vẻ, tự nhiên gục đầu và im lặng. Trái tim của nhà Vật lý Xô viết vĩ đại đã ngừng đập.

Trong suốt những ngày vĩnh biệt Kurchatov, từ gian phòng lớn của Nhà Công đoàn Mat-xcơ-va luôn vang lên bản nhạc mà ông thường yêu thích.
Sau khi mất, thi hài của Kurchatov được quàn tại tường thành Điện Kremli như các tướng lĩnh và các nhà chính trị nổi tiếng của Liên bang Xô viết.

***o0o***

Huế, 31 tháng 11 năm 2005
Trần Lộc Hùng
(Tổng hợp từ Internet và từ báo Nhân chứng và sự kiện của Nga, số 5, 2005)

Nước Nga: nghe, thấy và cảm nhận

I.

Bạn bè tôi thường nói: “không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga “. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước Nga ngót nghét 10 năm. Tôi đến nước Nga với những vần thơ và truyện ngắn của Pushkin, với “Anh hùng thời đại “của Levmantov, hay “Chiến tranh và hòa bình ” của Lev Tolstoi. Tôi rất mê thiên tài quân sự Napoleon Bonapart, nhưng tôi cũng biết rằng ông ta phải chịu rút chạy thảm bại trước ý chí kiên cường của người Nga và mùa đông khắc nghiệt của nước Nga. Tôi cũng biết nước Nga qua chiến thắng vĩ đại tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức với một tổn thất lớn nhất là mất trên 20 triệu người trong chiến tranh thế giới thứ hai (1941 - 1945). Nhưng có lẽ tôi yêu nước Nga từ khi tôi được hấp thụ nền văn hóa Nga, và được đào tạo bởi nền khoa học cơ bản của Nga. Còn vợ con tôi biết nước Nga chỉ qua những giai điệu bài hát “Chiều Matxcơva”, ” Cây bạch dương” hay “Kachiusa”… mà thỉnh thoảng khi hứng chí tôi vẫn hay ngêu ngao hát.

2.
Tôi thật sự bị sốc khi biết tin Vũ Anh Tuấn, sinh viên năm thứ nhất tại trường Bách Khoa Saint Peterbourg, bị những phần tử quá khích giết hại đêm 13 tháng 10 vừa qua.(năm 2004 - chú thích). Nước mắt của người đàn ông 50 tuổi như tôi trào ra một phần vì thương Tuấn, bạn cùng lứ tuổi với con trai tôi, một phần vì cảm giác hình tượng nước Nga trong mình hoàn toàn sụp đổ. Không lẽ nước Nga bây giờ lại khac hoàn toàn với nước Nga mà tôi biết những năm 1971-1972. Không lẽ người Nga bây giờ lại khắc những thầy cô giáo mà tôi từng được dạy dỗ những năm đại học và những năm làm luận án Phó tiến sỹ, khá với những người bạn Nga mà tôi đã từng sống cùng ký túc xá, lại khác với những người công nhân Nga mà tôi đã có dịp làm việc trong thời gian những ngày hè ở nước Nga.
3.
Tuấn ơi, chú nghĩ rằng khi cháu ngã xuống, cháu cũng không ngờ mình lại là đối tượng của những kể cuồng tín mới ở Nga. Chú nghĩ, chúng không phải là những “Người Nga” chân chính. Và chú cũng mong khi cháu giã từ cuộc đời với tuổi 20, cháu vẫn nghĩ tốt về nước Nga và người Nga. Chú không nhớ trong một cuốnn truyện nào đó mà chú đã đọc, chú rất thích thuật ngữ:”Tâm hồn Nga, tính cách Nga”, và chú cùng đã hiểu được phần nào thuật ngữ đó khi lao động, học tập và làm việc ở Nga.
4.
Những ngày đâu xuân 2005, tôi có dịp ghé lại Mat-xcơ-va (Moscow) nhân chuyện công tác tại trường Tổng hợp Quốc Gia Belarus (Cộng hòa Belarus). Xuống sân bay Demodemovo, tôi cảm thấy yên tâm vì không còn cảnh chen chúc và hỗn loạn của hành khách như tôi đã từng gặp tại sản bây Shemecheva 2 ở những năm 90 thế kỉ trước. Trên quãng đường dài trên taxi về thành phố, tôi gợi chuyện người lái xe về cuộc sống, về sự đời mới, về tất cả mới chuyện trên trời dưới biển đang diễn ra trên nước Nga.
Tôi cảm nhận được nước Nga thực sự đã khác với nước Nga mà tôi đã biết. Nước Nga đã giàu lên rất nhiều với số lượng tỷ phú trẻ hiện có, với những siêu thị chứa đây hàng hóa mang nhẫn mắc phương Tây. Ngoài đường các biểu ngữ tuyên truyền cho lối sống của những người giàu như mới đi du lịch nước ngoài, mới tiêu tiền trong các khu cờ bạc CASINO, v.v. và` v.v… Và hình` như không còn có taxi nào` chở khách theo đồng hồ nữa, mà theo sự thỏa thuận.
5.
Một giáo sư người Belarus không giấu vể khó chịu khi nói với tôi về thủ đô Matxcơva của nước Nga. “Đó là thành phố giàu nhất thế giới mà ông ta đã tới, nhưng cũng là nói mà ông ta ngại ghé lại nhất vì sự không an toàn”.Tôi cùng thực sự chia sẻ cảm giác đó với vì giáo sư khi tôi được cảnh báo qua tờ Đất nước (một tờ báo của Hội người Việt sống tại Nga) về 10 điều cần ghi nhớ khi tới Matxcơva. Đó là không nên ra ngoài nếu không thật sự cần thiết,và không muốn qua’ 8h tối. Không nên đi qua những góc phố tôi hay vườn hoa. Không nên xuống đường ngắm khi vắng người, v.v… Tôi cùng thực sự lo ngại khhi thấy trên các kênh truyền hình Nga chiếu nhiều phim mô tả lối sống thực dụng của một số người Nga hiện nay, mô tả sự hoạt động của các băng nhóm tội phạm hình` sự cũng như kinh tế. Ngoài` ra còn` có các thông tin như 63% người dân Matxcơva không thích những người dân gốc Châu Á’. Có lẽ nạn khủng bố đã làm nhiều người Nga luôn phải cảnh giác . Nhưng không lẽ người Nga lại cảnh giác và khó chịu với những sinh viên Việt nam nhỏ bé, hiền lành và chịu khó? Những sinh viên tới Nga để học hỏi văn hóa Nga và học những thành tựu khoa học của Nga, không phải là đối tượnng để những người Nga chân chính thù ghét và xua đuổi.
Tổng thống Nga PUTIN

6.
Thời gian tôi ghé lại Matxcơva cùng chính là thời gian mà các cuộc biểu tình` phản đối việc cắt ưu đãi cho những người về hưu và cựu chiến binh. Tôi đã chứng kiến những người biểu tình yên lặng đứng ngoài trời già lạnh -25 độ C với những yêu cầu thiết thực nhất cho cuộc sống như đi lại, chữa bệnh, lương hưu. Lúc đó tôi thực sự thông cảm cho Tổng thống Nga PUTIN - người mà tôi đánh giá là người đàn ông của thế kỉ 21- trước những khó khăn mà nước Nga đang gặp phải. Nhưng tôi cũng hy vọng rằng nước Nga sẽ vượt qua được những khó khăn trước mắt, như họ đã vượt quá nhiều khó khăn trong lịch sử. Trong tôi lại vang lên giai điệu bài hát’ Nga “Tổ quốc bắt đầu từ đâu”, trong đó có câu ” Chúng ta không đầu hàng ai”.
7.
Tôi cũng nhận thấy là nước Nga đang thay đổi từng ngày, từng giờ trong mọi lĩnh vực. Cải cách hành chính chắc chắn sẽ làm gọn nhẹ ngân sách nhà nước nhưng cũng đẩy nhiều người tham gia đội quân thất nghiệp vốn đã không ít ỏi gì. Tôi bắt gặp nhiều người già có trẻ có đứng ở các lối lên xuống các đường ngầm ở thủ đô Matxcơva với những giỏ trại cây hái vội từ vườn nhà, những đôi tất lên tự đan với hy vọng bán được để trang trải những khó khăn trong mùa đông giá lạnh của nước mình. Tôi cũng đã thấy rất nhiều nam nữ thanh niên ca hát ngoài đường phố với mọi thứ nhạc cụ. Họ không ngửa tay xin tiền của khách qua đường, nhưng họ cũng hy vọng những bài ca của họ được trả bằng những đồng tiền rúp, và vì vậy họ không hề từ chối những đồng rúp của những vị khách qua đường hảo tâm tha xuống. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng người Ngã đã giàu lên nhanh chóng khi nền kinh tế tập trung chuyển sang kinh tế thị trường. Ngoài đường nhiều người Nga trẻ tuổi, vẻ mặt tự mãn với những chiếc áo da đắt tiền, ngự trên những chiếc ôtô mà chắc thời bao cấp chỉ có các vị trong Bộ Chính trị mới được dùng. Trong các cửa hàng lớn, hàng hóa nhiều chủng loại và từ nhiều nguồn được bầy bán nhiều tới mức tôi nhớ lại thời kỳ mà đất nước Xô Viết đang là đốii trọng với phương Tây.
Năm 2001, tại sân bay Toronto(Canada), tội tình cờ gặp và trao đổi với một phụ nữ Nga - cán bộ Bộ Thương Mại Nga - qua Canada dự hội nghị chuyên đề. Lúc đó tôi được biết lương trung bình của một cán bộ công chức Nga là khoảng 200USD. Người phụ nữ Nga đã đỏ mặt khi tôi, với bản tính hay châm chọc, hỏii cảm tưởng của chị ta thế nào khi ở sân bay với một đống hoàng hóa miễn thuế mà chỉ ta sẽ mang về Nga qua chuyện công tác nước ngoài. Tôi phải nhắc khéo với chỉ ta một kỷ niệm đau buồn rằng trong những năm 90 của thế kỉ trước, những người Việt Nam đã bị coi thường khi đưa những hàng hóa sản xuất tại Nga về nước sau những đợt công tác, học tập hoặc kết thúc hợp đồng lao động tại các nhà máy ở Nga. Cái nhún vai của người phụ nữ như ham` ý: cuộc sống như vậy đó’.
Ghé qua nước Nga lần này, tôi ngạc nhiên khi biết rằng tiền lương trung bình của một giáo sư Nga khoảng 800USD vào đầu năm 2005. Cuộc cải cách của nước Nga đã động chạm cả tới những lĩnh vực mà lâu nay người Nga vẫn rất tự hào : khoa học cơ bản. Nhiều trường đại học danh tiếng của Nga đã thay đổi chương trình, cách thức đào tạo cũ bằng những chướng tirnh đào tạo hiện đại. Hiện tại nhiều trường DH của Nga vẫn là những địa chỉ đáng tin cây trong đào tạo chuyên gia chất lượng cao. Điều đó đã thu hút nhiều sinh viên các nước tôi học tại DH Ngã. Lương của các giáo sư được trả cao hơn và có nhiều khoán trả giống như chúng ta là phần cứng (lương cơ bản) và phần mềm (các khoản dạy ngoài giờ, dạy hệ không chính quy hoặc tiền thưởng ). Có lẽ điều đó phần nào hạn chế nạn chảy máu chất xám tại nước Nga trong thời điểm hiện tại. Chỉ có điều là hình như người Ngã ít tốn nhiều giấy mức như chúng ta khi nói về Cải cách giáo dục.
8.
Trong thời gian cho chuyện bay, tôi có ghé thăm TOGI - một trong những trung tâm buôn bán của người Việt trên đất Nga. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là ngoài lối vào trung tâm luôn có vài cảnh sát và bảo vệ người Nga đứng làm nhiệm vụ. Trung tâm này nguyên là một trong những cơ sở của nhà máy Togi, đầu những năm 1990 đã được một số người Việt thuê để làm nơi buôn bán. Khi mới bước vào đây, tôi có cảm giác như mình` đang đứng ở các khu phố Hàng Ngang, hàng Đào của Hà Nội. Hàng hóa chủ yếu xuất xứ từ Trung Quốc với mẫu mã đẹp, “chật lượng cực tốt- giá rẻ ” - theo lời giới thiệu của những người bán hàng. Hàng nhiều vô kể về chủng loại và số lượng, những hình` như lượng người bán lại đông hơn người mua. Có nhiều người Nga được thuê bán hàng với tiền công 10-15USD mỗi ngày. Thỉnh thoảng tôi lại phải dùng tiếng Việt để giải thích cho vài người bạn hàng người Việt vì họ cứ tưởng tôi là khách từ vùng Trung Á đến mua hàng`. Khi vừa quay lưng đi thì` từ đâu vọng tới tai tôi:” thế mà cứ tưởng là` một con gà béo”. Thì` ra “gà béo” là từ ma` người ở đây ám chỉ những vì khách giàu có. Trao đổii với một người có trách nhiệm ở TT TOGI, tôi được biết thời gian gần đây việc buôn bán của người Việt không được phát đạt cho làm. Kinh tế thị trường, sự đi lên của nền kinh tế Nga trong mấy năm gần đây, luật lệ buôn bán được thắt chặt, các loại thuế má phải đóng ..v.v.. đã làm cho một số người Việt phải vỡ mộng làm giàu trên đất Nga.
Rời trung tâm TOGI, tôi cứ suy nghĩ mãi và tự hỏi, không biết bao giờ người Việt chúng ta mới ra nước ngoài với tư cách chuyên gia hay những người đi du lịch.
9.
Về tới sân bay Nội Bài - Hà Nội sau 11 giờ đồng hồ bay từ Matxcơva, mặc dù mệt mỏi những cảm giác của chúng tôi là hoàn toàn yên tâm. Sự bình yên của mảnh đất quê hương, mặc dù chưa giàu có bằng ai, nhưng thật sự là một thành công lớn của Đảng và Nhà nước ta sao 20 năm đổi mới.
Trước khi rời Nga, một vì giáo sư hỏi tôi đại ý là ở đâu tốt hơn, ở nước ngoài hay ở Việt Nam. Tôi đã dùng một thành ngữ tiếng Nga để diễn đạt ý của mình:
“Rất tốt khi làm khách, nhưng ở nhà mình thì vẫn tốt hơn”

***o0o***

Mùa xuân 2005.
Trần Lộc Hùng